Hoàn thiện công tác kế toán thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm tại Công ty cổ phần May 10
Đăng ngày 19-11-2012 Lúc 04:40'- 2070 Lượt xem
Giá: 5 000 VND / 1 Tài liệu
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾ TOÁN THÀNH PHẨM VÀ TIÊU THỤ THÀNH PHẨM TRONG CÁC  DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT

 
1.1.           SỰ CẦN THIẾT CỦA KẾ TOÁN THÀNH PHẨM VÀ TIÊU THỤ THANH PHẨM TRONG CÁC DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT
Sản xuất hàng hoá ra đời đã đánh dấu sự phát triển của nền sản xuất xã hội và cho đến nay nó đã phát triển đến giai đoạn cao, đó là nền kinh tế thị trường. Thị trường là nơi tập trung các quan hệ sản xuất hàng hoá, là mục tiêu và cũng là nơi kết thúc quá trình kinh doanh. Điều quyết định sự tồn tại của một doanh nghiệp là thị trường chấp nhận sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp đó cả về chất lượng, mẫu mã và đi tới chấp nhận giá cả của sản phẩm. Để đánh giá khách quan và giám đốc toàn diện mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, kế toán được sử dụng như một công cụ sắc bén và có hiệu lực nhất.
Một trong những nội dung chủ yếu của kế toán quá trình sản xuất và tiêu thụ là kế toán thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm. Ý nghĩa to lớn của kế toán thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm đòi hỏi các doanh nghiệp áp dụng nhiều biện pháp khác nhau để tổ chức kế toán thành phẩm khoa học, hợp lý đúng chế độ Tài chính kế toán của Nhà nước, đảm bảo phản ánh chính xác, trung thực, khách quan tình hình nhập - xuất - tồn kho thành phẩm, tình hình thực hiện kế toán tiêu thụ thành phẩm, xác định doanh thu bán hàng, từ đó xác định kết quả kinh doanh của doanh nghiêp. Thực hiện chính xác, nhanh chóng kế toán thành phẩm, doanh thu bán hàng và xác định kết quả tiêu thụ không chỉ mang lại lợi ích đối với từng doanh nghiệp mà ở tầm vĩ mô công tác đó còn góp phần định lượng toàn bộ nền kinh tế.
1.1.1.       Thành phẩm và ý nghĩa cuả thành phẩm
Thành phẩm là những sản phẩm đã kết thúc quy trình công nghệ do doanh nghiệp thực hiện hoặc thuê ngoài gia công chế biên, đã được kiểm nghiệm phù hợp với tiêu chuẩn kỹ thuật quy định đã được nhập kho để bán hoặc giao thẳng cho người mua.
Trong doanh nghiệp công nghiệp, sản phẩm của từng bước công nghệ, từng giai đoạn sản xuất mới chỉ là nửa thành phẩm, nửa thành phẩm còn lại phải tiếp tục chế biến cho đến khi hoàn chỉnh. Những nửa thành phẩm đóng vai trò quan trọng và có giá trị sử dụng tương đối đầy đủ trong nền kinh tế thì nửa thành phẩm đó có thể bán ra ngoài. Tức là thành phẩm và nửa thành phẩm chỉ là những khái niệm xét trong phạm vi một doanh nghiệp cụ thể. Do vậy, thanh phẩm của doanh nghiệp này có thể chỉ là nửa thành phẩm của doanh nghiệp khác và ngược lại. Chính vì vậy, việc xác định đúng đắn thành phẩm trong từng doanh nghiệp là vấn đề cần thiết và có ý nghĩa quan trọng, nó quyết định đến quy mô, trình độ tổ chức quản lý sản xuất và tổ chức kế toán thành phẩm.
Thành phẩm được biểu hiện trên hai mặt: hiện vật và giá trị. Hiện vật được biểu hiện cụ thể bằng khối lượng hay số lượng và chất lượng hay phẩm chất.
Giá trị chính là giá trị của thành phẩm sản xuất nhập kho hay trị giá vốn của  thành phẩm đem bán.
Ý nghĩa: Thành phẩm là kết quả lao động sáng tạo của cán bộ công nhân viên trong toàn doanh nghiệp. Vì vậy cần đảm bảo an toàn tới mức tối đa thành phẩm, tránh rủi ro làm ảnh hưởng tới tài sản tiền vốn và thu nhập của doanh nghiệp.
Sản phẩm sản xuất ra muốn đáp ứng được nhu cẩu tiêu dùng phải thông qua tiêu thụ.
1.1.2.       Tiêu thụ thành phẩm và ý nghĩa của tiêu thụ thành phẩm
Thành phẩm trước khi đến tay người tiêu dùng phải trải qua quá trình tiêu thụ thành phẩm.
Tiêu thụ thành phẩm (hay còn gọi là bán hàng) là khâu cuối cùng của quá trình sản xuất kinh doanh, là giai đoạn cuối cùng của quá trình hoàn vốn của doanh nghiệp. Tiêu thụ thành phẩm là quá trình trao đổi để thực hiện giá trị hàng hoá, tức là chuyển hoá vốn của doanh nghiệp từ trạng thái hiện vật (hàng) sang trạng thái tiền tệ (tiền).
Hàng được đem bán có thể là thành phẩm, hàng hoá, vật tư hay lao vụ dịch vụ cung cấp cho khách hàng. Việc bán hàng có thể thoả mãn nhu cầu của cá nhân, đơn vị ngoài doanh nghiệp được gọi là bán hàng ra ngoài. Cũng có thể được cung cấp giữa các đơn vị, cá nhân trong cùng một công ty, một tập đoàn…gọi là bán hàng nội bộ.
Quá trình bán hàng được coi là hoàn thành khi hội đủ hai điều kiện:
ü  Hàng hoá đựơc chuyển giao chó khách, lao vụ dịch vụ đã được thực hiện.
ü  Khách hàng đã thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán.
Điều đó có nghĩa là nghiệp vụ bán hàng chỉ xảy ra khi giao xong hàng và nhận được tiền hoặc giấy chấp nhận trả tiền của khách hàng. Đây là lý do dẫn đến tình trạng doanh thu bán hàng và tiền hàng nhập quỹ không đồng thời. Số tiền thu được do bán hàng được gòi là doanh thu bán hàng.
Doanh thu bán hàng gồm: doanh thu bán hàng ra ngoài và doanh thu bán hàng nội bộ.
Tiền hàng nhập quỹ phản ánh toàn bộ số tiền mà người mua đã trả cho doanh nghiệp.
 Phân biệt giữa doanh thu bán hàng và tiền bán hàng nhập quỹ giúp doanh ngiệp xác định thời điểm kết thúc quá trình bán hàng, giúp bộ phận quản lý tìm ra phương thức thanh toán hợp lý và có hiệu quả, sử dụng hiệu quả số tiền nhập quỹ đem lại nguồn lợi lớn nhất cho doanh nghiệp.
Doanh thu bán hàng của doanh nghiệp chỉ được ghi nhận khi hàng hoá chuyển cho người mua và thu được tiền hoặc được người mua chấp nhập thanh toán tuỳ theo phương thức thanh toán.
Đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân: Thông qua khâu bán hàng góp phần đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng của xã hội, giữ vững quan hệ cân đối tiền hàng, ổn định đời sống nhân dân làm cho nền kinh tế quốc dân phát triền vững mạnh.
Như vậy, chỉ tiêu hàng hoá tiêu thụ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân nói chung và đối với quá trình sản xuất trong phạm vi doanh nghiệp nói riêng.
1.1.3.       Nhiệm vụ của kế toán thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm
Thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm là hai mặt của một hoạt động sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp. Vì quá trình sản xuất không chỉ dừng lại ở việc sản xuất ra sản phẩm mà phải bán sản phẩm kịp thời. Giữa kế hạch sản xuất và kế hoạch tiêu thụ có quan hệ mật thiết trong đó sản xuất là gốc của tiêu thụ. Nếu sản xuất không đảm bảo kế hoạch thì sẽ kéo theo kế hoạch tiêu thụ bị phá vỡ.
Trong quá trình hoạt động doanh nghiệp phải tính được kết quả kinh doanh trên cơ sở so sánh giữa doanh thu và chi phí của các hoạt động, kết quả kinh doanh phải được phân phối sử dụng theo đúng mục đích và tỷ lệ nhất định do cơ chế tài chính quy định.
Để tăng cường công tác chỉ đạo sản xuất kinh doanh, để kế toán thực sự là công cụ quản lý sắc bén, có hiệu lực thì kế toán thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm phải thực hiện tốt các nhiệm vụ sau:
ü  Tổ chức theo dõi, phản ánh chính xác, kịp thời và giám đốc chắt chẽ tình hình hiện có và sự biến động của từng loại thành phẩm, hàng hoá, trên cả hai mặt hiện vật và giá trị.
ü  Theo dõi phản ánh giám đốc chặt chẽ quá trình tiêu thụ ghi chép đầy đủ các khoản chi phí bán hàng, thu nhập bán hàng, xác định kết quả sản xuất thông qua doanh thu bán hàng một cách chính xác.
ü  Cung cấp những thông tin kinh tế cần thiết cho các bộ phận liên quan, đồng thời định kỳ tiến hành phân tích kinh tế đối với hoạt động bán hàng và xác định kết quả.
ü  Kiểm tra, giám sát tiến độ thực hiện kế hoạch thực hiện tiêu thụ. Kế hoạch lợi nhuận, kỷ luật thanh toán và nghĩa vụ đối với Nhà nước.
Như vậy, thông tin mà kế toán cung cấp giúp nhà quản lý doanh nghiệp biết được tình hình hiện có và sự biến động của từng loại thành phẩm từ đó giúp nhà quản lý điều hành, đánh giá, phân tích..tình hình hoạt động của doanh nghiệp và đề ra các biện pháp, quyết định phù hợp với đường lối chính sách của doanh nghiệp.
Tổ chức công tác kế toán hợp lý và khoa học, phù hợp với đặc điểm tổ chức sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nhằm phát huy vai trò của kế toán là một yêu cầu quan trọng đối với người chủ doanh nghiệp và kế toán trưởng, đặc biệt là bộ phận kế toán thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm. Kế toán cung cấp những thông tin cần thiết giúp giám đốc doanh nghiệp và những nhà quản lý doanh nghiệp biết được mức độ hoàn thành sản phẩm của doanh nghiệp, giá thành sản phẩm tiêu thụ…Để phát hiện kịp thời thiếu sót, mất cân đối ở từng khâu của quá trình lập và thực hiện kế hoạch. Làm tốt khâu này sẽ tạo điều kiện cho bộ phận kế toán giá thành… tạo ra một hệ thống quản lý chặt chẽ, có hiệu lực cao. Như vậy, việc tổ chức công tác kế toán thành phẩm và kế toán tiêu thụ thành phẩm một cách khoa học hợp lý phù hợp với điều kiện của từng doanh nghiệp có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc thu nhận, xử lý, cung cấp thông tin cần thiết cho chủ doanh nghiệp, giám đốc điều hành, các cơ quan chủ quả…Để lựa chọn phương thức kinh doanh có hiệu quả…
Như vậy, mục đích của kế toán thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm là cung cấp thông tin đầy đủ và cần thiết cho các đối tượng khác nhau với nhiều mục đích khác nhau để đưa ra những quyết định quản lý phù hợp.  Điều này nói lên vai trò vô cùng quan trọng của kế toán thành phẩm, tiêu thụ thành phẩm trong công tác quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

1.2.           NỘI DUNG KẾ TOÁN THÀNH PHẨM VÀ TIÊU THỤ THÀNH PHẨM TRONG CÁC DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT
1.2.1.       Nội dung kế toán thành phẩm
1.2.1.1.          Yêu cầu đối với công tác quản lý thành phẩm
-  Việc quản lý thành phẩm trong doanh nghiệp gắn liền với việc quản lý sự vận động của từng loại thành phẩm, hàng hoá trong quá trình nhập xuất tồn kho trên các chỉ tiêu số lượng, chất lượng và giá trị.
-  Để quản lý về mặt số lượng đòi hỏi phải giám sát thường xuyên tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất,  tình hình nhập, xuất, tồn kho dự trữ thành phẩm, kịp thời phát hiện tình hình hàng hoá tồn kho lâu ngày không được tiêu thụ, cần tìm mọi biện pháp giải quyết vấn đề ứ đọng vốn.
-  Về mặt chất lượng: Đây là yếu tố vô cùng quan trọng. Nếu thành phẩm không đảm bảo chất lượng, mẫu mã không được cải tiến thì sẽ không đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng. Do vậy, mỗi doanh nghiệp cần phải nhanh chóng nắm bắt thị hiếu của người tiêu dùng để kịp thời đổi mới, cải tiến mặt hàng. Bộ phận kiểm tra chất lượng phải làm tốt công tác kiểm tra chất lượng sản phẩm, có chế độ kiểm tra thích hợp với từng loại sản phẩm khác nhau, kịp thời phát hiện những sản phẩm có chất lượng kém để loại ra khỏi quá trình sản xuất. Có như vậy mới tránh được tình trạng lãng phí, hoàn thành tốt nhiệm vụ quản lý thành phẩm, củng cố địa vị của mỗi doanh nghiệp cũng như những sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường.
1.2.1.2.          Nguyên tắc kế toán thành phẩm
Thành phẩm của doanh nghiệp gồm nhiều chủng loại, nhiều thứ hàng có phẩm cấp khác nhau nên yêu cầu quản lý về mặt kế toán cũng khác nhau. Để thực hiện tốt nghiệp vụ quản lý thành phẩm một cách khoa học, hợp lý phải đảm bảo các yêu cầu sau:
-         Phải tổ chức kế toán thành phẩm theo từng loại, từng thứ theo đơn vị sản xuất, theo đúng số lượng và chất lượng thành phẩm, từ đó làm cơ sở để xác định kết quả sản xuất kinh doanh của từng đơn vị, từng phân xưởng... và có số liệu để so sánh với các chỉ tiêu kế hoạch.
-         Phải có sự phân công và kết hợp trong việc ghi chép kế toán thành phẩm giữa phòng kế toán và những nhân viên hạch toán phân xưởng, giữa kế toán thành phẩm và thủ kho thành phẩm. Điều này ảnh hưởng đến việc hạch toán chính xác, kịp thời, giám sát chặt chẽ thành phẩm và tăng cường các biện pháp quản lý thành phẩm.
1.2.1.3.          Đánh giá thành phẩm
 Về nguyên tắc, thành phẩm phải được đánh giá theo giá trị thực tế.
Theo cách này, trị giá thành phẩm phản ánh trong kế toán tổng hợp phải được đánh giá theo nguyên tắc giá thực tế.
v    Đối với thành phẩm nhập kho:
Giá thực tế của thành phẩm nhập kho được xác định phù hợp theo từng nguồn nhập:
-       Thành phẩm do doanh nghiệp sản xuất ra được đánh giá theo giá thành sản xuất thực tế, bao gồm: chi phí NVL trực tiếp, chi phí NC trực tiếp và chi phí SXC.
-    Thành phẩm thuê ngoài gia công nhập kho được đánh giá theo giá thành thực tế gia công, bao gồm: chi phí NVL trực tiếp, chi phí thuê ngoài gia công và các chi phí khác liên quan trực tiếp đến thành phẩm thuê gia công(chi phí vận chuyển, bốc dỡ…).
-    Thành phẩm thuê ngoài thì giá thực tế thành phẩm nhập kho sẽ bao gồm giá mua ghi trên hoá đơn (giá chưa có thuế GTGT), chi phí mua thực tế (chi phí bảo quản, bốc dỡ, vận chuyển...) nhưng loại trừ các khoản chiết khấu, giảm giá (nếu có).
-   Nhập kho do nhận liên doanh thì giá thực tế nhập kho là do hội đồng liên doanh thống nhất.
v    Đối với thành phẩm xuất kho.
Đối với thành phẩm xuất kho cũng phải được phản ánh theo giá thực tế. Do thành phẩm nhập từ các nguồn hay các đợt nhập với giá khác nhau nên việc xác định giá thực tế xuất kho có thể áp dụng một trong các cách sau:
Ø    Tính theo giá thực tế đích danh:  theo phương pháp này thành phẩm được xác định giá trị theo đơn chiếc hay từng lô và giữ từ lúc nhập vào cho đến lúc xuất dùng. Khi xuất dùng hàng(lô hàng) nào sẽ xác định theo giá đích danh của hàng (lô hàng) đó.
Ø    Phương pháp nhập trước xuất trước (FIFO): theo phương pháp này thì thành phẩm nào nhập vào kho trước sẽ được xuất trước.
Ø    Phương pháp nhập sau xuất trước(LIFO): theo phương pháp này thành phẩm nào nhập kho sau xẽ được xuất trước.
Ø    Phương pháp bình quân : trong phương pháp này lại có ba dạng như sau:
-                Giá đơn vị bình quân cuối kỳ trước.
-                Giá đơn vị bình quân sau mỗi lần nhập.
-                Giá đơn vị bình quân cả kỳ dự trữ (bình quân gia quyền).
Array
(
    [type] => 8192
    [message] => preg_replace(): The /e modifier is deprecated, use preg_replace_callback instead
    [file] => /home/pwhqfmvb/GiangVien/includes/countries.php
    [line] => 435
)