Tổ chức công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty Gạch ốp lát Hà Nội
Đăng ngày 18-10-2012 Lúc 12:54'- 1533 Lượt xem
Giá: 5 000 VND / 1 Tài liệu
PHẦN I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG TÁC KẾ TOÁN. TẬP HỢP CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM
TRONG DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT.

I. BẢN CHẤT NỘI DUNG KINH TẾ VÀ SỰ CẦN THIẾT CỦA CÔNG TÁC HẠCH TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM. 
            1. Chi phí sản xuất và phân loại chi phí sản xuất. 
          a. Chi phí sản xuất. 
          Sản xuất của cải vật chất là hoạt động cơ bản của xã hội loài người,đây chính là điều kiện quyết định của sự tồn tại và phát triển trong mọi chế độ xã hội. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay hoạt động sản xuất xây dựng của các doanh nghiệp thực chất là việc sản xuất ra các sản phẩm theo yêu cầu của thị trường nhằm mục đích kiếm  lời. Để đạt được mụcđích này thì các doanh nghiệp phải bỏ ra những chi phí nhất định. Do vậy để tồn tại và phát triển kinh doanh mang lại lợi nhuận thì buộc các doanh nghiệp phải giảm đến mức tối thiểu các chi phí của mình bỏ ra trong quá trình sản xuất. 
          Các nhà kinh học thường quan niệm rằng chi phí là các khoản phí tổn phải bỏ ra khi sản xuất hàng hoá, dịch vụ trong kỳ kinh doanh. Đối với các nhà quản trị doanh nghiệp thì chi phí là các khoản phải mua các yếu tố cần thiết cho việc tạo ra sản phẩm nhằm mang lại lợi ích kinh tế cho doanh nghiệp. Còn các nhà kế toán thường quan niệm chi phí như một khoản hy sinh hay bỏ ra để đạt được mục đích nhất định. Nó xem như một lượng tiền phải trả cho các hoạt động của doanh nghiệp trong việc tạo ra sản phẩm. Như vậy các quan niệm trên thực chất chỉ là sự nhìn nhận, bản chất của chi phí từ các góc độ khác nhau. Theo Mác khi phân tích chi phí ông cũng cho rằng chi phí sản xuất hàng hoá là chi phhí do tư bản đã thực hiện vào sản xuất hàng hoá cấu thành, nó đúng bằng giá trị tư bản đã chi ra và hoàn toàn không phải là một khoản mục chỉ có trong kế toán tư bản chủ nghĩa tính độc lập chủ yếu đó trong giá trị thực tiễn không ngừng được biểu hiện ra trong quá trình sản xuất thực tế của hàng hoá. Mặc dù các hao phí bỏ ra cho sản xuất xây dựng bao gồm nhiều loại khác nhau nhưng trong điều kiện tồn tại của quan hệ hàng hoá tiền tệ chóng cần được tập  hợp và biểu hiện dưới hình thức tiền tệ. Từ đó ra có thể đi đến một cách biểu hiện chung nhất về chi phí sản xuất như sau: 
          Chi phí là biểu hiện bằng tiền như hao phí về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp thực tế chi ra để tiến hành hoạt động sản xuất trong một kỳ kinh doanh nhất định. Các chi phí này phát sinh có tính chất thường xuyên và gắn liền với quá trình sản xuất sản phẩm của một doanh nghiệp.  
          Trong đơn vị sản xuất, ngoài những chi phí có tính chất sản xuất còn có những chi phí không có tính chất sản xuất vì vậy chúng ta cần phân biệt chi phí với hao phí và chi tiêu. 
          Ví dụ. Có những chi phí bỏ ra để tiến hành hoạt động sản xuất mới được gọi là chi phí sản xuất vật tư, tiền vốn trong doanh nghiệp không kể nó được dùng vào việc gì. Chi tiêu là cơ sở phát sinh chi phí, không có chi tiêu thì không có chi phí, song giữa chúng lại có sự khác nhau về lượng và thời gian, chi tiêu có thể là chi  phí (như mua vật tư đưa ngay vào sản xuất) hoặc cũng có thể chưa phải là chi phí sản xuất (như mua vật tư đưa về kho chưa xuất dùng…) mặt khác cũng có khoản chi tiêu chưa xảy ra ở kỳ hạch toán trước được tính vào chi phí ở kỳ này. 
          b. Phân loại chi phí sản xuất. 
          Chi phí sản xuất của các doanh nghiệp bao gồm nhiều loại có nội dung khác nhau, mục đích và công dụng của chúng trong quá trình sản xuất cũng khác nhau do đó yêu cầu quản lý đối với từng loại cũng khác nhau. Để phục vụ cho công tác quản lý chi phí sản xuất và kế toán tập hợp chi phí sản xuất có thể tiến hành phân loại chi phí sản xuất từng tiêu thức khác nhau, việc hạch toán chi  phí sản xuất theo từng loại sẽ nâng cao tính chi tiết của thông tin hạch toán là cơ sở tin cậy cho việc phấn đấu giảm chi phí. Dưới đây là một số cách phân loại chủ yếu: 
          * Phân loại theo yếu tố. 
          Theo cách phân loại này ta căn cứ vào tính chất nội dung kinh tế của chi phí sản xuất khác nhau để chia ra các yếu tố chi phí, mỗi yếu tố chi phí chỉ bao gồm các chi phí có cùng nội dung kinh tế không phân biệt chi phí đã  phát  sinh ở lĩnh vực nào, ở đâu và  mục đích tác dụng của chi phí như thế nào. Vì vậu cách phân loại này được gọi là phân loại chi phí sản xuất theo yếu tố.  Toàn bộ chi  phí sản xuất trong kỳ được chia làm các yếu tố sau: 
          Chi phí nguyên vật liệu: Bao gồm toàn bộ giá trị nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, phụ tùng thay thế nhiên liệu động lực, công cụ, dụng cụ … sử dụng nhiên liệu động lực, công cụ, dụng cụ … sử dụng vào sản xuất kinh doanh. 
          - Chi phí nhân công: Gồm tiền lương và các khoản phụ cấp lương, phản ánh tổng số tiền lương và phụ cấp lương, phản ánh tổng số tiền lương và phụ cấp mang tính lương phải trả cho toàn bộ công nhân viên chức và tiền lương thuê ngoài. 
          Gồm cả các chi phí về BHXH, BHYT, KPCĐ tính theo quy định. 
          - Chi phí khấu hao tài sản cố định: Phản ánh tổng số khấu hao TSCĐ phải trích trong kỳ của tất cả tài sản cố định dùn trong sản xuất kinh doanh. 
          - Chi phí dịch vụ mua ngoài: Phản ánh toàn bộ chi phí dịch vụ mua ngoài dùng vào sản xuất kinh doanh. 
          - Chi phí khác bằng tiền: Phản ánh toàn bộ các chi phí khác bằng tiền chưa phản ánh vào các yếu tố ở trên trong kỳ sản xuất kinh doanh. 
          * Phân loại chi phí theo mục đích và công dụng của chi phí (theo khoản mục) 
          Mỗi yếu tố chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ đều có mục đích và công dụng nhất định đối với hoạt động sản xuất kinh doanh. Theo cách phân loại này ta căn cứ vào mục đích công dụng của chi phí trong sản xuất để chia ra các khoản mục khác nhau, mỗi khoản mục chi phí chỉ bao gồm những chi phí có cùng mục đích và công dụng không phân biệt chi phí đó có nội dung kinh tế như thế nào. Vì vậy cách phân loại này còn gọi là cách phân loại theo khoản mục. Toàn bộ chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ được chia thành các  mục chi phí như sau: 
          - Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: Bao gồm chi  phí về nguyên vật liệu chính vật liệu phụ, nhiên liệu… tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất tạo ra sản phẩm. 
          - Chi phí nhân công trực tiếp: Gồm tiền lương, phụ cấp lương của công nhân trực tiếp và các khoản phải trích theo lương như BHXH, BHYT, KPCĐ theo tỷ lệ % quy định. 
          - Chi  phí sản xuất chung: Bao gồm chi phí liên quan đến quản lý phục vụ sản xuất chung ở các bộ phận xây dựng trong đó gồm: 
          + Chi phí nhân viên phân xưởng. 
          + Chi phí nguyên vật liệu. 
          + Chi phí công cụ, dụng cụ. 
          + Chi phí khấu hao TSCĐ (cả sản xuất lẫn quản lý phân xưởng) 
          + Chi phí dịch vụ mua ngoài (chỉ dùng cho phân xưởng) 
          + Chi phí bằng tiền. 
          * Phân loại theo mối quan hệ với đối tượng chịu chi phí. 
          - Chi phí trực tiếp: chi phí liên quan đến nhiều đối tượng tập hợp chi phí. 
          - Chi phí gián tiếp: Chi  phí liên quan đến nhiều đối tượng tập hợp chi phí xong phải phân bổ. Thông thường chi phí sản xuất chung là chi phí gián tiếp. 
          * Phân loại theo nội dung cấu thành chi phí: Phân làm 2 loại. 
          - Chi phí đơn nhất: Là chi phí do một yếu tố chi phí cấu thành như chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, nhân công trực tiếp. 
          - Chi phí tổng hợp: Là chi phí do nhiều yếu tố cấu thành như chi phí sản xuất chung. 
          * Phân loại chi  phí theo mối quan hệ với khối lượng sản phẩm sản xuất ra. 
          - Biến phí: là chi phí biến đổi tỷ lệ với khối lượng sản phẩm. 
          - Định phí: Là chi phí không phụ thuộc vào khối lượng sản phẩm như khấu hao. 
          2. Giá thành sản phẩm. 
          a. Bản chất và khái niệm. 
          Giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh là tổng chi  phí bằng tiền của tất cả các mặt hoạt động sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp là thước đo mức tiêu hao phù hợp để bù đắp trong quá trình sản xuất, là căn cứ xây dựng phương án giá cả sản phẩm hàng hoá. 
          Tóm lại giá thành là chi phí sản xuất tính cho một khối lượng hoặc một đơn vị sản phẩm hoàn thành. 
          Giá thành được tính toán xác định cho từng loại sản phẩm lao vụ cụ thể và chỉ tính toán với số lượng sản phẩm hoặc dịch vụ sản phẩm đã hoàn thành toàn bộ quá trình sản xuất (thành phẩm) hoặc kết thúc một số giai đoạn sản xuất (bán thành phẩm) 
          Giá thành trong một chừng mực nhất định nó vừa mang tính chủ quna vừa mang tính khách quan. Vì vậy, chúng ta phải xem xét giá thành trên nhiều góc độ khác nhau nhằm sử dụng chỉ tiêu giá thành có hiệu quả.  
          Giá thành là biểu hiện bằng tiền, giá trị tư liệu sản xuất và sức lao động kết tinh trong một đơn vị sản xuất sản phẩm hàng hoá. Vì vậy nó mang tính khách quan do sự di chuyển và tính kết ting này là tất yếu. Việc tính toán đo lường là biểu hiện chúng bằng tiền chỉ là phản ánh của quản lý mà thôi. 
          Mặt khác, giá thành là một đại lượng tính toán trên cơ sở chi phí sản xuất chỉ ra trong kỳ nên nó là chỉ tiêu có sự chủ quan. Đặc điểm của chủ quan này thể hiện trên hai khía cạnh. 
          Thứ nhất: Giá thành là biểu hiện bằng tiền của các tư liệu sản xuất và sức lao động đã hao phí để sản xuất ra khối lượng sản phẩm nhất định. Vì vậy việc áp dụng các biện pháp đánh giá khác nhau ở từng doanh nghiệp cũng làm cho giá thành sản phẩm mang tính chủ quan nhất định. 
          Giá thành được tính trên cơ sở chi phí sản xuất những chi phí được tập hợp vào giá thành phải tuân theo quy định chung của nguyên tắc kế toán. 
          Chẳng hạn những chi phí không liên quan trực tiếp đến quá trình sản xuất như chi phí quản lý doanh nghiệp, chi phí bán hàng trước kia được tập hợp vào giá thành sản phẩm theo quy định của chế độ kế toán cũ. Trong chế độ kế toán mới mà bộ tài chính mới ban hành ngày 1/11/1995 thì hai loại chi phí này không được tính vào giá thành sản phẩm mà chúng được coi là phí tổn doanh nghiệp phải chịu, do vậy làm cho giá thành dao động theo. 
          Từ việc nghiên cứu  bản chất của giá thành sản phẩm ta có thể đi đến một khái niệm chung nhất về giá thành sản phẩm như sau: Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền toàn bộ chi phí về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp đã bỏ ra cho một khối lượng sản phẩm lao động nghĩa vụ đã hoàn thành. 
          b. Phân loại giá thành: Có hai cách phân loại. 
          * Phân loại theo thời điểm tính giá thành và cơ sở tính giá thành thì giá thành được chia làm 3 loại: 
          - Giá thành kế hoạch: Được tính trước khi xây dựng. 
          - Giá thành định mức : Được tính trước khi xây dựng. 
          - Giá thành thực tế: Được tính sau khi hoàn thành nên số liệu thực tế. 
          * Phân loại theo phạm vi chi phí cấu thành. 
          - Giá thành sản xuất: từ khâu đầu đến kết thúc sản xuất. PHẦN I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG TÁC KẾ TOÁN. TẬP HỢP CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TRONG DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT.

I. BẢN CHẤT NỘI DUNG KINH TẾ VÀ SỰ CẦN THIẾT CỦA CÔNG TÁC HẠCH TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM. 
            1. Chi phí sản xuất và phân loại chi phí sản xuất. 
          a. Chi phí sản xuất. 
          Sản xuất của cải vật chất là hoạt động cơ bản của xã hội loài người,đây chính là điều kiện quyết định của sự tồn tại và phát triển trong mọi chế độ xã hội. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay hoạt động sản xuất xây dựng của các doanh nghiệp thực chất là việc sản xuất ra các sản phẩm theo yêu cầu của thị trường nhằm mục đích kiếm  lời. Để đạt được mụcđích này thì các doanh nghiệp phải bỏ ra những chi phí nhất định. Do vậy để tồn tại và phát triển kinh doanh mang lại lợi nhuận thì buộc các doanh nghiệp phải giảm đến mức tối thiểu các chi phí của mình bỏ ra trong quá trình sản xuất. 
          Các nhà kinh học thường quan niệm rằng chi phí là các khoản phí tổn phải bỏ ra khi sản xuất hàng hoá, dịch vụ trong kỳ kinh doanh. Đối với các nhà quản trị doanh nghiệp thì chi phí là các khoản phải mua các yếu tố cần thiết cho việc tạo ra sản phẩm nhằm mang lại lợi ích kinh tế cho doanh nghiệp. Còn các nhà kế toán thường quan niệm chi phí như một khoản hy sinh hay bỏ ra để đạt được mục đích nhất định. Nó xem như một lượng tiền phải trả cho các hoạt động của doanh nghiệp trong việc tạo ra sản phẩm. Như vậy các quan niệm trên thực chất chỉ là sự nhìn nhận, bản chất của chi phí từ các góc độ khác nhau. Theo Mác khi phân tích chi phí ông cũng cho rằng chi phí sản xuất hàng hoá là chi phhí do tư bản đã thực hiện vào sản xuất hàng hoá cấu thành, nó đúng bằng giá trị tư bản đã chi ra và hoàn toàn không phải là một khoản mục chỉ có trong kế toán tư bản chủ nghĩa tính độc lập chủ yếu đó trong giá trị thực tiễn không ngừng được biểu hiện ra trong quá trình sản xuất thực tế của hàng hoá. Mặc dù các hao phí bỏ ra cho sản xuất xây dựng bao gồm nhiều loại khác nhau nhưng trong điều kiện tồn tại của quan hệ hàng hoá tiền tệ chóng cần được tập  hợp và biểu hiện dưới hình thức tiền tệ. Từ đó ra có thể đi đến một cách biểu hiện chung nhất về chi phí sản xuất như sau: 
          Chi phí là biểu hiện bằng tiền như hao phí về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp thực tế chi ra để tiến hành hoạt động sản xuất trong một kỳ kinh doanh nhất định. Các chi phí này phát sinh có tính chất thường xuyên và gắn liền với quá trình sản xuất sản phẩm của một doanh nghiệp.  
          Trong đơn vị sản xuất, ngoài những chi phí có tính chất sản xuất còn có những chi phí không có tính chất sản xuất vì vậy chúng ta cần phân biệt chi phí với hao phí và chi tiêu. 
          Ví dụ. Có những chi phí bỏ ra để tiến hành hoạt động sản xuất mới được gọi là chi phí sản xuất vật tư, tiền vốn trong doanh nghiệp không kể nó được dùng vào việc gì. Chi tiêu là cơ sở phát sinh chi phí, không có chi tiêu thì không có chi phí, song giữa chúng lại có sự khác nhau về lượng và thời gian, chi tiêu có thể là chi  phí (như mua vật tư đưa ngay vào sản xuất) hoặc cũng có thể chưa phải là chi phí sản xuất (như mua vật tư đưa về kho chưa xuất dùng…) mặt khác cũng có khoản chi tiêu chưa xảy ra ở kỳ hạch toán trước được tính vào chi phí ở kỳ này. 
          b. Phân loại chi phí sản xuất. 
          Chi phí sản xuất của các doanh nghiệp bao gồm nhiều loại có nội dung khác nhau, mục đích và công dụng của chúng trong quá trình sản xuất cũng khác nhau do đó yêu cầu quản lý đối với từng loại cũng khác nhau. Để phục vụ cho công tác quản lý chi phí sản xuất và kế toán tập hợp chi phí sản xuất có thể tiến hành phân loại chi phí sản xuất từng tiêu thức khác nhau, việc hạch toán chi  phí sản xuất theo từng loại sẽ nâng cao tính chi tiết của thông tin hạch toán là cơ sở tin cậy cho việc phấn đấu giảm chi phí. Dưới đây là một số cách phân loại chủ yếu: 
          * Phân loại theo yếu tố. 
          Theo cách phân loại này ta căn cứ vào tính chất nội dung kinh tế của chi phí sản xuất khác nhau để chia ra các yếu tố chi phí, mỗi yếu tố chi phí chỉ bao gồm các chi phí có cùng nội dung kinh tế không phân biệt chi phí đã  phát  sinh ở lĩnh vực nào, ở đâu và  mục đích tác dụng của chi phí như thế nào. Vì vậu cách phân loại này được gọi là phân loại chi phí sản xuất theo yếu tố.  Toàn bộ chi  phí sản xuất trong kỳ được chia làm các yếu tố sau: 
          Chi phí nguyên vật liệu: Bao gồm toàn bộ giá trị nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, phụ tùng thay thế nhiên liệu động lực, công cụ, dụng cụ … sử dụng nhiên liệu động lực, công cụ, dụng cụ … sử dụng vào sản xuất kinh doanh. 
          - Chi phí nhân công: Gồm tiền lương và các khoản phụ cấp lương, phản ánh tổng số tiền lương và phụ cấp lương, phản ánh tổng số tiền lương và phụ cấp mang tính lương phải trả cho toàn bộ công nhân viên chức và tiền lương thuê ngoài. 
          Gồm cả các chi phí về BHXH, BHYT, KPCĐ tính theo quy định. 
          - Chi phí khấu hao tài sản cố định: Phản ánh tổng số khấu hao TSCĐ phải trích trong kỳ của tất cả tài sản cố định dùn trong sản xuất kinh doanh. 
          - Chi phí dịch vụ mua ngoài: Phản ánh toàn bộ chi phí dịch vụ mua ngoài dùng vào sản xuất kinh doanh. 
          - Chi phí khác bằng tiền: Phản ánh toàn bộ các chi phí khác bằng tiền chưa phản ánh vào các yếu tố ở trên trong kỳ sản xuất kinh doanh. 
          * Phân loại chi phí theo mục đích và công dụng của chi phí (theo khoản mục) 
          Mỗi yếu tố chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ đều có mục đích và công dụng nhất định đối với hoạt động sản xuất kinh doanh. Theo cách phân loại này ta căn cứ vào mục đích công dụng của chi phí trong sản xuất để chia ra các khoản mục khác nhau, mỗi khoản mục chi phí chỉ bao gồm những chi phí có cùng mục đích và công dụng không phân biệt chi phí đó có nội dung kinh tế như thế nào. Vì vậy cách phân loại này còn gọi là cách phân loại theo khoản mục. Toàn bộ chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ được chia thành các  mục chi phí như sau: 
          - Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: Bao gồm chi  phí về nguyên vật liệu chính vật liệu phụ, nhiên liệu… tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất tạo ra sản phẩm. 
          - Chi phí nhân công trực tiếp: Gồm tiền lương, phụ cấp lương của công nhân trực tiếp và các khoản phải trích theo lương như BHXH, BHYT, KPCĐ theo tỷ lệ % quy định. 
          - Chi  phí sản xuất chung: Bao gồm chi phí liên quan đến quản lý phục vụ sản xuất chung ở các bộ phận xây dựng trong đó gồm: 
          + Chi phí nhân viên phân xưởng. 
          + Chi phí nguyên vật liệu. 
          + Chi phí công cụ, dụng cụ. 
          + Chi phí khấu hao TSCĐ (cả sản xuất lẫn quản lý phân xưởng) 
          + Chi phí dịch vụ mua ngoài (chỉ dùng cho phân xưởng) 
          + Chi phí bằng tiền. 
          * Phân loại theo mối quan hệ với đối tượng chịu chi phí. 
          - Chi phí trực tiếp: chi phí liên quan đến nhiều đối tượng tập hợp chi phí. 
          - Chi phí gián tiếp: Chi  phí liên quan đến nhiều đối tượng tập hợp chi phí xong phải phân bổ. Thông thường chi phí sản xuất chung là chi phí gián tiếp. 
          * Phân loại theo nội dung cấu thành chi phí: Phân làm 2 loại. 
          - Chi phí đơn nhất: Là chi phí do một yếu tố chi phí cấu thành như chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, nhân công trực tiếp. 
          - Chi phí tổng hợp: Là chi phí do nhiều yếu tố cấu thành như chi phí sản xuất chung. 
          * Phân loại chi  phí theo mối quan hệ với khối lượng sản phẩm sản xuất ra. 
          - Biến phí: là chi phí biến đổi tỷ lệ với khối lượng sản phẩm. 
          - Định phí: Là chi phí không phụ thuộc vào khối lượng sản phẩm như khấu hao. 
          2. Giá thành sản phẩm. 
          a. Bản chất và khái niệm. 
          Giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh là tổng chi  phí bằng tiền của tất cả các mặt hoạt động sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp là thước đo mức tiêu hao phù hợp để bù đắp trong quá trình sản xuất, là căn cứ xây dựng phương án giá cả sản phẩm hàng hoá. 
          Tóm lại giá thành là chi phí sản xuất tính cho một khối lượng hoặc một đơn vị sản phẩm hoàn thành. 
          Giá thành được tính toán xác định cho từng loại sản phẩm lao vụ cụ thể và chỉ tính toán với số lượng sản phẩm hoặc dịch vụ sản phẩm đã hoàn thành toàn bộ quá trình sản xuất (thành phẩm) hoặc kết thúc một số giai đoạn sản xuất (bán thành phẩm) 
          Giá thành trong một chừng mực nhất định nó vừa mang tính chủ quna vừa mang tính khách quan. Vì vậy, chúng ta phải xem xét giá thành trên nhiều góc độ khác nhau nhằm sử dụng chỉ tiêu giá thành có hiệu quả.  
          Giá thành là biểu hiện bằng tiền, giá trị tư liệu sản xuất và sức lao động kết tinh trong một đơn vị sản xuất sản phẩm hàng hoá. Vì vậy nó mang tính khách quan do sự di chuyển và tính kết ting này là tất yếu. Việc tính toán đo lường là biểu hiện chúng bằng tiền chỉ là phản ánh của quản lý mà thôi. 
          Mặt khác, giá thành là một đại lượng tính toán trên cơ sở chi phí sản xuất chỉ ra trong kỳ nên nó là chỉ tiêu có sự chủ quan. Đặc điểm của chủ quan này thể hiện trên hai khía cạnh. 
          Thứ nhất: Giá thành là biểu hiện bằng tiền của các tư liệu sản xuất và sức lao động đã hao phí để sản xuất ra khối lượng sản phẩm nhất định. Vì vậy việc áp dụng các biện pháp đánh giá khác nhau ở từng doanh nghiệp cũng làm cho giá thành sản phẩm mang tính chủ quan nhất định. 
          Giá thành được tính trên cơ sở chi phí sản xuất những chi phí được tập hợp vào giá thành phải tuân theo quy định chung của nguyên tắc kế toán. 
          Chẳng hạn những chi phí không liên quan trực tiếp đến quá trình sản xuất như chi phí quản lý doanh nghiệp, chi phí bán hàng trước kia được tập hợp vào giá thành sản phẩm theo quy định của chế độ kế toán cũ. Trong chế độ kế toán mới mà bộ tài chính mới ban hành ngày 1/11/1995 thì hai loại chi phí này không được tính vào giá thành sản phẩm mà chúng được coi là phí tổn doanh nghiệp phải chịu, do vậy làm cho giá thành dao động theo. 
          Từ việc nghiên cứu  bản chất của giá thành sản phẩm ta có thể đi đến một khái niệm chung nhất về giá thành sản phẩm như sau: Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền toàn bộ chi phí về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp đã bỏ ra cho một khối lượng sản phẩm lao động nghĩa vụ đã hoàn thành. 
          b. Phân loại giá thành: Có hai cách phân loại. 
          * Phân loại theo thời điểm tính giá thành và cơ sở tính giá thành thì giá thành được chia làm 3 loại: 
          - Giá thành kế hoạch: Được tính trước khi xây dựng. 
          - Giá thành định mức : Được tính trước khi xây dựng. 
          - Giá thành thực tế: Được tính sau khi hoàn thành nên số liệu thực tế. 
          * Phân loại theo phạm vi chi phí cấu thành. 
          - Giá thành sản xuất: từ khâu đầu đến kết thúc sản xuất. 
Array
(
    [type] => 8192
    [message] => preg_replace(): The /e modifier is deprecated, use preg_replace_callback instead
    [file] => /home/pwhqfmvb/GiangVien/includes/countries.php
    [line] => 435
)