Cơ hội và thách thức đối với các doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay
Đăng ngày 05-05-2012 Lúc 08:55'- 1704 Lượt xem
Giá: 5 000 VND / 1 Tài liệu
NỘI DUNG
Trên thực tế kinh tế Việt Nam đã hội nhập kinh tế quốc tế, nhưng mức độ và quy mô còn hạn chế. Do nhu cầu phát triển nền kinh tế hiện tại và tỏng tương lai cũng như xu thế phát triển chung của thế giới đã đến lúc chúng ta cần đánh gái lại một số thuận lợi và khó khăn  đặt ra đối với việc "đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.
A. Cơ hội của doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế.
1. Chính sách của Đảng và Nhà nước.
Đảng cũng như Nhà nước đã có những  chủ trương và chính sách nhất quán cho việc chủ động tham gia vào tiến trình khu vực hoá và toàn cầu hoán.
Còn nhớ khi Việt Nam bắt đầu bước vào cải cách đổi mới việc mở rộng quan hệ kinh tế với các quốc gia, tham gia vào các tổ chức kinh tế khu vực và toàn cầu chưa  phải đã có được tiếng nói chung. Nay với quan điểm "mở cửa hội nhập phát triển" "hội nhập chứ không hoà tan", Việt Nam đã đẩy nhanh quá trình hội nhập. ở tầm vĩ mô về "xu thế không thể tránh khỏi đối với sự phát triển" của việc tham gia toàna cầu hoá thực tế có ý nghĩa rấ lớn đối với sự nghiệp đổi mới, hội nhập của Việt Nam. Từ nhận thức này, mà trong những năm qua Việt Nam đã có bước chuyển đổi lớn trong chính sách phát triển kinh tế nói chung, chính sách phát triển kinh tế đối ngoại nói riêng. Các chính sách này đều theo hướng tự do hoá, tất cả ở các tâng cấp khác nhau phụ thuộc vào thực lực cụ thể của mỗi lĩnh vực.
2. Sử dụng tài nguyên, nhân lực dồi dào.
+ Nguồn tài nguyên sẵn có:
Tham gia toàn cầu hoá chính là nhằm tranh thủ những điều kiện quốc tế để khai thác các tiềm năng kinh tế nước nhà, Việt Nam là quốc gia có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú nhưng chưa được khai thác hiệu quả. Với nguồn tài nguyên phong phú không chỉ tạo điều kiện cho việc phát triển các ngành công nghiệp khai thác chế biến mà còn là sức hút đối với các công ty nước ngoài. Trên cơ sở các nguồn tài nguyên thiên nhiên chúng ta có thể xác lập cơ cấu ngành kinh tế với những sản phẩm có tính cạnh tranh đáp ứng được nhu cầu, thị trường thế giới, về vị trí địa lý nước ta cửa ngõ đi ra Thái Bình Dương của một số quốc gia Đông Nam Á, là điểm tiếp giáp với các tuyến đường giao thông quan trọng của thế giới. Đáng chú ý với bờ biển rộng, trải dài từ Bắc tới Nam với nihều hải cảng, đặc biệt cảng Cam Ranh có độ sâu thuận lợi cho phát triển giao thông hàng hải cũng như phát triển kinh tế hàng hoá. Ngoài ra một só khoáng sản nưh Bôxít có trữ lượng lớn 5 tỷ tấn đứng thứ ba thế giới, quặng đất hiếm cũng có trữ lượng lớn đứng thứ hai thế giới.
+ Sau Trung Quốc, thì các loại khoáng sản ở Việt Nam tuy trữ lượng không lớn nhưng rất đa dạng và phong phú. Đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá hiện địa hoá, thì việc khai thác sử dụng các nguồn lực đó thông qua hợp tác là rất cần thiết. Với  thực trạng nguồn tài nguyên kinh tế chúng ta, không nên hình thành cơ cấu kinh tế hướng về xuất khẩu tài nguyên lớn. Cần qua, hợp tác, quỹ như phát huy năng lực bên trong đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế chuyển sang xuất khẩu các mặt khàng chế biến.
+ Nguồn nhân lực: Với thị trường gồm 80 triệu dân, trong đó tỷ lệ người trong độ tuổi lao động cao (dân só trẻ) có trình độ văn hoá, cần cù lao động và đặc biệt giálao động rẻ. Đó là với thể so sánh có ý nghĩa trong quá trình tham gia hội nhập. Trên thực tế nhiều công ty nước ngoài vào Việt Nam, một trong những lý do quan trọng là tận dụng nguồn lao động dồi dào, rẻ và có khả nang tiếp thu công nghệ mới Việt Nam. Theo đánh giá của các công ty Nhậ khi phân tích lợi thế môi trường kinh doanh của các quốc gia ASEAN, Việt Nam đứng thứ 7 trong tổng số 10 quốc gia. Như vậy với lợi thế nhất định về nguồn lao động cho phép lựa chọn hình khối phù hợp tham gia vào hội nhập và chính qua hội nhập là điều kiện để hàng cao chát lượng nguồn lao động của Việt Nam.
B. Những thách thức đặt ra trong quá trình hội nhập.
1. Trình độ phát triển so với kinh tế.
Một khoảng cách khá xa giữa Việt Nam và quốc tế. Hiện nay 75% lao động làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp. Cho đến năm 1999 nền kinh tế nước ta về thực chất vẫn là nền kinh tế nông nghiệp, trong đó khu v ực thực chất vẫn là nèn kinh tế nông nghiệp, trong đó khu vực nông nghiệp chiếm 25,4% GDP, công nghiệp chiếm 34,5% và dịch vụ chiếm 40,1%. Trong khi đó ở các nước phát triển, tỷ trọng khu vực nông nghiệp giảm mạnh chỉ chòn khoảng 20% và khu vực dịch vụ thì đặc biệt phát triển, nhất là lĩnh vực thông tin, Nhìn chung trong nền kinh tế  của Việt Nam, về công nghệ hiện nay vô cùng lạc hậu, so với thế giới chậm từ 56 -100 năm. Hệ thống thiết bị kỹ thuật ở hầu hết các doanh nghiệp lạc hậu so với mức trung bình hiện nay của thế giới 2 ® 3 thế hệ, thậm chí có lĩnh vực 4 -5 thế hệ. mà các ln của Việt Nam còn nỏ, yếu cả về khả năng quản lý kinh doanh lẫn khả năng, năng lực sản xuất. Các doanh nghiệp của chúng ta sau một thời gian dài hoạt động theo cơ chế hoạch hoá chuyển sang phương thức kinh doanh mơí còn lúng túng, nhất là trong tham gia cạnh tranh quốc tế. Hiện nay trong 6000 doanh nghiệp nhà nước.
Array
(
    [type] => 8192
    [message] => preg_replace(): The /e modifier is deprecated, use preg_replace_callback instead
    [file] => /home/pwhqfmvb/GiangVien/includes/countries.php
    [line] => 435
)