Nguồn gốc, bản chất của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường
Đăng ngày 05-05-2012 Lúc 08:32'- 6131 Lượt xem
Giá: 5 000 VND / 1 Tài liệu

Chương  I

NGUỒN GỐC  VÀ BẢN CHẤT CỦA LỢI NHUẬN

1/ Nguồn gốc của lợi nhuận:
1.1. Các quan điểm trước Mác về lợi nhuận.
Lợi nhuận xuất hiện từ lâu nhưng đến khi có giai cấp thì lợi nhuận với được bàn đến với tư cách là một  phạm trù kinh tế. Trước Mác không phải các quan điểm đều thống nhất, đều đúng đắn mà các trường phái đều cố gắng  bào chữa cho quan điểm của họ.
1.1.1. Chủ nghĩa trọng thương: Ra đời trong thời kỳ tan rã của chế độ phong kiến và thời kỳ tích luỹ nguyên thuỷ của CNTB, khi kinh tế hàng hóa và ngoại thương phát triển. Những người theo chủ nghĩa trọng thương rất coi trọng thương nghiệp và cho rằng lợi nhuận thương nghiệp chính là kết quả của sự trao đổi không ngang giá, là sự lừa gạt. Theo họ không một người nào thu được lợi nhuận mà không làm thiệt hại cho kẻ khác, trong trao đổi phải có một bên lợi và một bên thiệt.
Những người theo chủ nghĩa trọng thương coi tiền là đại biểu duy nhât của của cải, là tiêu chuẩn để đánh giá sự giàu có của mỗi quốc gia. Họ cho rằng khối lượng tiền tệ chỉ có thể gia tăng bằng con đường ngoại thương. Trong hoạt động ngoại thương phải có chính sách siêu (mua ít, bán nhiều) điều đó được thể hiện trong câu nói của Montchritren "Nội thương là ống dẫn ngoại thương là báy bơm, muốn tăng của cải phải có ngoại thương để nhập dần của cải của ngoại thương".
1.1.2 Chủ nghĩa trọng nông:
Cũng như chủ nghĩa trọng thương, chủ nghĩa trọng nông xuất hiện trong khuôn khổ quá độ từ chế độ phong kiến sang chế độ TBCN nhưng ở giai đoạn kinh tế phát triển trưởng thành hơn. Vào giữa TK 18 Tây âu đã phát triển theo con đường TBCN và ở Anh cuộc cách mạng công nghiệp bắt đầu. ở Pháp và một số nước Tây âu công trường thủ công cũng phát triển và ăn sâu vào cả trong nông nghiệp lẫn công nghiệp. Nội dung cơ bản của chủ nghĩa trọng nông là giải phóng kinh tế nông dân thoát khỏi phong kiến để phát triển nông nghiệp theo kiểu TBCN.
Về lợi nhuận họ cho rằng P thương nghiệp chẳng qua là do nhờ vào các khoản tiết kiệm chi phí thương mại, và theo họ cho rằng thương mại  chỉ đơn thuần là việc đổi giá trị này lấy giá trị khác ngang như thế mà thôi và trong quá trình trao đổi đó, nếu xét dưới hình thái thuần tuý thì cả người mua và người bán đều không được lợi hoặc mất gì cả. Thương nghiệp không sinh ra của cải, trao đổi không sinh ra được gì cả  không làm cho tài sản tăng lên.   Khi phê phán chủ nghĩa trọng thương C.Mác đã viết trong bộ Tư bản (quyển I tập 1):"Người ta trao đổi những hàng hoá với giá hàng hoá hoặc hàng hoá với tiền tệ có cùng giá trị với hàng hoá đó, tức là trao đổi ngang giá, rõ ràng là không ai  rút ra được trong lưu thông  nhiều giá trị hơn số giá trị bỏ vào trong đó. Vậy giá trị thặng dư tuyệt nhiên không thể hình thành ra được". Như vậy họ đã hơn chủ nghĩa Trọng thương ở chỗ là  chỉ ra được lưu thông (trao đổi) không sinh ra của cải.
1.1.3. Kinh tế chính trị học tư sản cổ điển Anh:
Chủ nghĩa trọng thương và bắt đầu tan rã ngay ở TK 17. Cuối TK 18 ở Anh Pháp học thuyết kinh tế cổ điển xuất hiện. Vào thời kỳ này, sau khi   tích luỹ được khối lượng tiền lớn, giai cấp tư sản tập trung vào lĩnh vực sản xuất. Vì vậy các công trường thủ công trong lĩnh vực công nghiệp và nông nghiệp diễn ra mạnh mẽ. Diễn ra việc tước đoạt ruộng đất của nông dân, hình thành hai giai cấp vô sản và chủ chiếm hữu ruộng đất. Mặt khác sự tồn tại của chế độ phong kiến không chỉ kìm hãm sự phát triển của CNTB, mà còn làm sâu  sắc hơn mâu thuẫn trong giai cấp quý tộc và trong giai cấp này dần dần cũng bị tư sản hoá. Chính sự chuyển đổi lĩnh vực sản xuất nên nó đòi hỏi phải có những lý thuyết đúng soi đường mà Chủ nghĩa trọng nông và trọng thương không đáp ứng được. Do đó kinh tế chính trị học tư sản cổ điển ra đời.
William Petty ( 1623 - 1687): Là  nhà kinh tế học người Anh được Mác đánh giá là cha đẻ của kinh tế chính trị học cổ điển. Ông tìm thấy phạm trù phạm trù địa tô mà chủ nghĩa trọng thương đã bỏ qua và ông định nghĩa địa tô là số chênh lệch giữa giá của sản phẩm và chi phí sản xuất (bao gồm tiền lương, giống má...). Về lợi tức ông nói trong cuốn "Bàn về tiền tệ" là lợi tức là số tiền thưởng trả cho  sự ăn tiêu, coi lợi tức cũng như tiền thuê ruộng.
Adam Smith (1723 - 1790): Theo ông thì lợi nhuận là "khoản khấu trừ thứ hai" vào sản phẩm lao động. Theo cách giải thích của ông thì lợi nhuận, địa tô, và lợi tức cũng chỉ là hình thái khác nhau của giá trị do công nhân tạo ra thêm ngoài  tiền lương.
Array
(
    [type] => 8192
    [message] => preg_replace(): The /e modifier is deprecated, use preg_replace_callback instead
    [file] => /home/pwhqfmvb/GiangVien/includes/countries.php
    [line] => 435
)